BẢN TIN THUẾ THÁNG 09/2017
Thông tư số 93/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến thuế GTGT
Ngày 19/9/2017, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 93/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến thuế GTGT. Nội dung cụ thể như sau:
- Bỏ hướng dẫn nộp Mẫu 06/GTGT để đăng ký áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập và cơ sở kinh doanh đang hoạt động có doanh thu chịu thuế GTGT dưới 1 tỷ đồng.
- Bỏ hướng dẫn nộp Mẫu 06/GTGT khi chuyển đổi phương pháp tính thuế GTGT.
- Bổ sung hướng dẫn phương pháp tính thuế GTGT của cơ sở kinh doanh xác định theo Hồ sơ khai thuế GTGT hướng dẫn tại Điều 11 Thông tư 156/2013/TT-BTC (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và năm 2015).
Như vậy, kể từ ngày 05/11/2017, việc xác định phương pháp tính thuế GTGT căn cứ theo Hồ sơ khai thuế do cơ sở kinh doanh gửi đến cơ quan thuế. Cụ thể như sau:
– Nếu đăng ký áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì gửi tờ khai thuế GTGT mẫu 01/GTGT, mẫu 02/GTGT đến cơ quan thuế.
– Nếu đăng ký áp dụng thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì gửi tờ khai thuế GTGT mẫu 03/GTGT, mẫu 04/GTGT đến cơ quan thuế.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05 tháng 11 năm 2017.
Công văn số 3977/TCT-DNL về chính sách thuế đối với các khoản thanh toán không dùng tiền mặt
Ngày 05/09/2017, Tổng Cục thuế đã ban hành Công văn số 3977/TCT-DNL hướng dẫn chính sách thuế đối với các khoản thanh toán không dùng tiền mặt. Nội dung cụ thể như sau:
Trường hợp Doanh nghiệp và các đơn vị thành viên của Doanh nghiệp ủy quyền cho cá nhân là người lao động của Doanh nghiệp sử dụng thẻ ngân hàng, thẻ tín dụng mang tên cá nhân để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ cho người bán sau đó về thanh toán lại với Doanh nghiệp nếu có đủ hồ sơ, chứng từ chứng minh hàng hóa, dịch vụ được sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp gồm: Hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ mang tên Doanh nghiệp; Hồ sơ liên quan đến việc ủy quyền của doanh nghiệp cho cá nhân thanh toán với người bán và thanh toán lại với Doanh nghiệp; chứng từ chuyển tiền từ tài khoản của Doanh nghiệp cho cá nhân và chứng từ chuyển tiền từ thẻ của cá nhân cho người bán thì Doanh nghiệp được kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào và được tính vào chi phí được trừ khi tính thuế TNDN.
Công văn số 4066/TCT-DNL về thuế nhà thầu nước ngoài đối với dịch vụ bảo hành
Ngày 08/09/2017, Tổng Cục thuế đã ban hành 4066/TCT-DNL trả lời Cục thuế tỉnh Bắc Ninh về thuế nhà thầu nước ngoài đối với dịch vụ bảo hành. Theo đó:
Trường hợp nhà cung cấp nước ngoài cung cấp hàng hóa, nguyên vật liệu, thiết bị, máy móc và phụ kiện (sau đây gọi là sản phẩm) cho Công ty theo hình thức giao hàng tại cửa khẩu nước ngoài hoặc tại cửa khẩu Việt Nam; nhà cung cấp nước ngoài chịu mọi trách nhiệm, chi phí, rủi ro liên quan đến hàng hóa cho đến điểm giao hàng và không thực hiện bất kỳ dịch vụ nào tại Việt Nam liên quan đến việc cung cấp các sản phẩm nêu trên cho Công ty, ngoại trừ việc cam kết bảo hành miễn phí cho Công ty đối với các sản phẩm này theo trách nhiệm và nghĩa vụ của người bán trong một thời hạn cụ thể, được quy định tại Hợp đồng; Công ty chịu mọi trách nhiệm, chi phí và rủi ro liên quan đến việc nhận hàng, chuyên chở hàng từ điểm giao hàng thì nhà cung cấp nước ngoài không thuộc đối tượng áp dụng Thông tư số 103/2014/TT-BTC.
Công văn số 60968/CT-TTHT về chính sách thuế
Ngày 08/09/2017, Cục thuế Thành phố Hà Nội đã ban hành Công văn số 60968/CT-TTHT về chính sách thuế TNCN, nội dung cụ thể như sau:
Trường hợp một người nước ngoài được Công ty mẹ cử sang Công ty con làm việc dài hạn, đáp ứng điều kiện là cá nhân cư trú tại Việt Nam, nhận tiền lương từ cả Công ty và Công ty mẹ tại Nhật Bản thì:
– Đối với thu nhập do Công ty chi trả, Công ty con có trách nhiệm khấu trừ và nộp thay thuế TNCN theo biểu lũy tiến từng phần.
– Đối với thu nhập do Công ty mẹ tại Nhật Bản chi trả, cá nhân người nước ngoài phải trực tiếp kê khai nộp thuế định kỳ hàng quý.
Ngoài ra, nếu theo thỏa thuận Công ty con sẽ trả hộ khoản tiền thuê nhà sau đó Công ty mẹ thanh toán lại thì đây cũng được xem là thu nhập nhận từ Công ty mẹ nên người nước ngoài phải trực tiếp khai nộp thuế.
Khi quyết toán thuế, người nước ngoài phải tổng hợp toàn bộ thu nhập phát sinh trong kỳ (kể cả khoản tiền thuê nhà) để xác định số thuế phải nộp. Trường hợp đã nộp thuế tại Nhật Bản thì được trừ vào số thuế phải nộp ở Việt Nam, nhưng không vượt quá số thuế phải nộp tính theo biểu thuế Việt Nam phân bổ cho phần thu nhập phát sinh từ nước.
Trường hợp Công ty mẹ tại Nhật Bản và Công ty có thỏa thuận bằng văn bản về việc tiền thuê nhà cho người nước ngoài tại Việt Nam sẽ do Công ty mẹ tại Nhật Bản chi trả, Công ty đứng ra trả hộ khoản tiền thuê nhà này trước, sau đó Công ty mẹ tại Nhật Bản hoàn trả lại mà không rành buộc bất cứ trách nhiệm nào khác thì khi trả tiền thuê nhà, Công ty sử dụng chứng từ chi tiền, khi nhận tiền thuê nhà từ Công ty mẹ tại Nhật Bản, Công ty sử dụng chứng từ thu tiền làm cơ sở hạch toán kế toán.
Công ty không phải kê khai, nộp thuế, không được khấu trừ, hạch toán chi phí đối với khoản thu hộ – chi hộ tiền thuê nhà nêu trên.
Công văn số 4107/TCT-KK về việc quản lý khai thuế đối với doanh nghiệp chế xuất
Ngày 12/09/2017, Tổng Cục thuế. đã ban hành Công văn số 4107/TCT-KK trả lời Cục thuế tỉnh Hà Nam về việc quản lý nghĩa vụ kê khai đối với doanh nghiệp chế xuất (DNCX) thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu. Nội dung cụ thể như sau:
Trường hợp ngoài hoạt động sản xuất để xuất khẩu, DNCX còn được cấp phép để thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa tại Việt Nam (bao gồm cả hoạt động giao dịch mua hàng hóa tại Việt Nam để xuất khẩu hoặc nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài vào Việt Nam để bán – gọi chung là hoạt động quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu) theo quy định của pháp luật thì hoạt động này thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, DNCX phải thực hiện đăng ký thuế với cơ quan thuế nội địa và thực hiện mở sổ kế toán hạch toán riêng doanh thu, chi phí liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa tại Việt Nam, không hạch toán chung vào hoạt động sản xuất, đồng thời phải bố trí khu vực riêng để lưu giữ hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu theo quyền nhập khẩu, quyền xuất khẩu.
DNCX chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác đối với việc thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật, Các ưu đãi đầu tư, ưu đãi về thuế và các ưu đãi tài chính khác áp dụng đối với việc sản xuất để xuất khẩu của DNCX không áp dụng đối với hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của DNCX.